Chào mừng các bạn đến với - Góc Thương Mại - do các cựu thành viên trường Quốc Gia Thương Mại tại Việt Nam thực hiện

26 tháng 4, 2012

năm thứ nhất thương mại


NĂM THỨ NHẤT THƯƠNG MẠI ...
(mến tặng các Anh Chị khóa 18 và các bạn khóa 19


1974, bước vào năm thứ nhất khoa Thương mại cái gì cũng lạ lẫm và bỡ ngỡ. Tôi mới thoát ra từ ngôi trường trung học bé nhỏ ở ngã tư Bảy Hiền, ngôi trường chỉ có hai lớp đệ nhất, một lớp ban A và một lớp ban B. Không còn điểm danh, không còn bị bắt buộc mặc đồng phục áo dài trắng, không còn các thầy giám thị với ánh mắt khó đăm đăm... 

Trường mới sao mà rộng lớn và đông học sinh quá. À mà không, bây giờ phải gọi họ (cả tôi nữa) là sinh viên. Trường có nhiều khoa, nào là khoa Điện, khoa Hóa, khoa Công chánh, khoa Hàng hải, khoa Cơ khí, khoa Nữ công gia chánh và khoa của tôi : khoa Thương mại. Trường lại phân ra làm hai : trường Đại học Kỹ thuật Phú thọ và trường Đại học Chuyên nghiệp trung cấp, thì khoa Thương mại thuộc trường sau này. Tôi được biết rằng từ khóa 1 đến khóa 17 thì còn thuộc trường Quốc gia Thương mại. Đến khóa 18 , vào năm 1973, thì trường Quốc gia Thương mại (QGTM) được chuyển đổi thành khoa Thương mại mà tôi đang theo học đây. Cũng có thể gọi khóa 18 là Khóa 1 thuộc khoa Thương mại, Đại học Chuyên nghiệp trung cấp. Trường Quốc gia Thương mại do thầy Nguyễn Trọng Chiết và thầy Phan Hữu Tạt luân phiên làm hiệu trưởng. Khi trường QGTM được chuyển đổi thành khoa Thương mại thuộc Đại học Chuyên nghiệp trung cấp vào năm 1973 thì thầy Phan Hữu Tạt làm Khoa trưởng của khoa. 

Ngày đầu vào học, tôi gặp ngay Hoàng Oanh, bạn học lớp 11B, mừng quá, chạy lại ngồi bên cạnh. Lại thêm Hậu, mà Oanh quen từ trước, thế là kết làm bộ ba. À mà sao trong lớp toàn các cô “bộ ba”: Hạnh-Thu-Dung, Thục-Nam-Hoa, Trinh-Báu-Vân, .... Bàn ghế ở đây cũng khác dưới trung học : bàn ghế rời cho từng người chứ không phải bàn dài và ghế dài cho 3, 4 người. Bài học thì phải tự ghi theo lời giảng của các Thầy Cô chứ không được đọc cho chép. Sách giáo khoa thì ít, phần lớn là các xấp cours in ronéo mà sinh viên đóng tiền để được phát. 

Khóa 19 có đến 2/3 là nữ, chia làm hai lớp : lớp A thì học sinh ngữ Anh, lớp B thì theo Pháp văn, mỗi lớp có khoảng 60 sinh viên. Lớp tôi có 3 dãy bàn thì nữ chiếm 2 dãy, còn nam có 1 dãy. Nhưng khóa 18 thì chỉ có 1 lớp, số nam lại nhiều hơn nữ. Khóa 19 chiếm hai phòng học, khóa 18 thì một phòng học, tất cả đều học ở lầu 1. Lúc tôi vào học thì khóa 17 chưa ra trường, các anh chị khóa này học ở trên lầu 2. Có một số giờ, như giờ của thầy Hậu thì chúng tôi học ở Giảng đường, gộp chung hai lớp A và B. Ngày đó, bước vào Giảng đường sao thấy rộng mênh mông, và mình thì bé nhỏ chút xíu. 



Các môn học cũng thật xa lạ. Tôi được học môn Kế toán đại cương do thầy khoa trưởng Phan Hữu Tạt dậy. Môn Kế toán thực hành do thầy Hạnh dậy. Môn Văn thư thương mại (Bussiness letters) do cô Loan, môn đánh máy của thầy Lang, môn Toán tài chánh của thầy Hậu, môn Kinh tế học, môn Tốc ký, môn Luật thương mại, môn Luật hàng không... 

Tôi kính nể các Thầy Cô ở đây quá vì một lý do thật trẻ con : họ toàn đến trường bằng xe ô tô tự lái hoặc có tài xế lái, họ ăn mặc thật sang trọng, tác phong thật oai nghiêm. Nói vậy thôi chứ tôi thật sự nể nhiều Thầy Cô : cô Loan học ở Anh về, cô dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Tôi chỉ dám len lén nhìn cô : vẻ đẹp quý phái và giọng Ăng Lê tuyệt vời khiến tôi ngây thơ nghĩ rằng cô có pha dòng máu của dân xứ sở sương mù . Thầy Lang biểu diễn đánh máy bằng mười đầu ngón tay khiến bọn tôi hoa cả mắt; về nhà tôi vẽ các ký tự của bàn máy chữ lên tờ giấy vì nhà không có bàn máy chữ và ráng tập, nhưng mãi mà không bỏ được thói quen “mổ cò” bằng có hai đầu ngón tay. Thầy Hậu dạy cho chúng tôi cách tính nhanh các phép tính cộng, trừ, nhân, chia vì lúc đó đâu đã có máy tính. Lạ một điều là cho đến tận bây giờ, tôi vẫn vô tình áp dụng các điều đã học từ thầy Hậu; trên một cột các số được cộng, thì phải chọn cộng trước các cặp số mà tổng là 10... hoặc chọn các số giống nhau rồi lấy tích... Nhờ vậy mà tôi tính tiền tính bạc rất mau đến độ các bà bán hàng phải lác mắt. 

Môn kế toán của thầy Hạnh giúp tôi đến tận bây giờ. Hai cột thu – chi phải cân đối theo dạng đối chiếu biểu. Thói quen lập Sổ thu – chi không thể bỏ được, dù chỉ là những chi tiêu vặt vãnh trong gia đình. Qua 20 năm sau này, tôi vẫn còn giữ được 20 quyển sổ thu- chi của gia đình mặc cho bị chê cười là lẩm cẩm ! 



Nhưng người làm tôi lo lắng nhất chính là thầy Khoa trưởng Phan Hữu Tạt. Thầy không truy bài, Thầy không bắt học nhiều, nhưng Thầy hay chỉ định từng người bắt hát, tôi lo Thầy bắt tôi hát. Thầy có dáng người bệ vệ, tóc hơi hói, đeo kính trắng, có giọng nói và tiếng cười rất vang. Thầy kê ghế ngồi giữa phòng và gật gù nghe từng người chúng tôi hát; hát hay, hát dở gì thì Thầy cũng rất thích thú. Đặc biệt là khi bạn Ngọc Châu ca cải lương thì Thầy say sưa nghe, thỉnh thoảng lại mỉm cười; bạn hát xong Thầy bắt hát nữa, hát nữa... Ngoài Thầy thì còn có tôi cũng mê giọng ca của Ngọc Châu lắm, mê đến độ tôi năn nỉ bạn dạy ca cải lương, dù bạn cố dạy nhưng cũng phải chào thua vì giọng Bắc của tôi mà hát cải lương thì chắc chắn là thất bại. Thầy hay trêu chúng tôi : bạn Tuyết Hoa thì Thầy kêu là Tuyết Bông, bạn Hoàng Oanh thì Thầy kêu là ca sĩ Hoàng Oanh... 

Tất cả chúng tôi đều mến thầy Dần dậy môn Thể dục, tuy không thích môn này lắm. Thầy vui vẻ, dạy rất tận tâm làm chúng tôi bớt sợ các cái xà ngang, cái dây leo, các cái hố cát. Sợ nhất là phải leo dây, cái dây thừng to bằng cổ tay, treo tít trên cao nhìn lên mỏi cả mắt, thế mà phải leo tận lên trên đó ! Nữ thì được leo dây có bám hai tay và hai bàn chân vào dây, còn nam thì không được bám chân mà chỉ được dùng hai tay để hít lên. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ bạn Bành Thạnh leo dây : bạn hơi nặng cân, cái dây cứ xoay tròn và bạn cố bám giữ sợi dây để khỏi rớt xuống chứ không mong gì hít lên được; vẻ mặt của bạn, tôi vẫn nhớ mãi, cả đám bạn tinh quái cười ầm ầm. Thầy Dần thường tổ chức cho chúng tôi đi picnic, chơi các trò chơi tập thể, múa các điệu dân vũ rất dễ thương. 

Khóa 19 thì rất gắn bó với khóa 18. Có lẽ vì học ở các phòng cạnh nhau, gặp nhau hàng ngày. Ngoài ra, các Anh Chị khóa 18 luôn xem các đàn em khóa 19 như những người em thân thiết. Các Anh Chị cho chúng tôi mượn bài vở, kéo chúng tôi vào sinh hoạt chung : văn nghệ, thuyết trình, báo chí, thể thao, trò chơi ngoài trời... Văn nghệ thì có các anh : Chí Hùng, Minh Khải, Hữu Bình, Hữu Dũng... Báo chí và thuyết trình thì có các anh : Lê Anh Dũng, Khang Thụy, Tiến Đạt... Thể thao thì có các anh: Minh Trí, Hồng Hải ... Anh Vũ Thế Hiệp thì hay kêu chúng tôi ra sân quây vòng tròn để chơi các trò chơi tập thể, anh vốn là một hướng đạo sinh nên anh tổ chức sinh hoạt ngoài trời rất hay; các sinh hoạt này làm chúng tôi phấn khởi và gần gũi nhau hơn. Ngoài ra, khóa 18 còn có các giọng ca chuyên nghiệp như : chị Lâm Thanh Hương, chị Đặng Thị Yến... 



Nói chung, khóa 18 các anh chị thật đa tài. Còn khóa 19 chúng tôi thì mới chập chững bước vào trường và chưa có gì nổi bật lắm. Và ông Trời đã se duyên cho khá nhiều cặp của hai khóa 18 và 19 : cặp Khải-Vân, cặp Hiệp-Ngọc, cặp Kiệt-Thọ. Những cặp này sống với nhau rất hạnh phúc đến tận bây giờ. Vậy thì chúng ta phải cám ơn ngôi trường Quốc gia Thương mại các bạn nhỉ ? 

Nhưng ngày vui qua mau. Thời sinh viên đẹp đẽ của khóa 19 chúng tôi thật ngắn ngủi ! Tôi nhập học tháng 9/1974, đến tháng 12/1974 (trước Tết) thì bắt đầu thi Học kỳ đầu tiên, sau Tết đi học lại vào tháng 01/1975 và chờ kết quả thi học kỳ 1. Các biến cố chiến tranh dồn dập, mọi chuyện xảy ra nhanh quá. Đám sinh viên chúng tôi chạy theo các Thầy mà hỏi : Thầy ơi, rồi chúng con có được tiếp tục học nữa không?... 

Sau 30/4/1975, khoa Thương mại, khoa Nữ công gia chánh và khoa Hàng Hải tách ra khỏi trường. Các Anh Chị khóa 17, 18 được đi học "bồi dưỡng chuyên môn" một thời gian ngắn rồi ra trường, người thì ngành Ngoại thương người thì ngành Kế toán. Còn chúng tôi - khóa 19 - thì nhà trường chuyển qua học các khoa khác trong trường : Hóa, Công chánh, Cơ khí. 

Thời sinh viên khoa Thương mại của khóa 19 ngắn ngủi quá, chỉ tồn tại có đúng từ tháng 9/1974 đến 30/4/1975. Và tôi mãi mãi là sinh viên năm thứ nhất, khoa Thương mại ! 

--
Sài Gòn, tháng 10/2010. 
Thôn Nữ (K19)

22 tháng 4, 2012

khóa 3 - đội 1 - những kỷ niệm với bạn nguyễn ngọc trường (1936-2012)


Biến cố 1954 đã đưa chúng ta từ khắp mọi miền đất nước (Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Nam... ) gặp nhau tại Mái Trường Quốc Gia Thương Mại Saigon - Khóa 3-Đội I do sự chăn dắt của Thầy Nguyễn Trọng Chiết với bao nhiêu kỷ niệm...
Rồi biến cố 1975, đã đưa chúng ta đến khắp phương trời. Từ Saigon đến CA; Từ Washington DC đến Australia. Và từ nửa vòng trái đất, từ hơn nửa thế kỷ sau, chúng ta lại có Ngày Hạnh Ngộ Quốc Gia Thương Mại tại WDC năm 2010.
Rồi lại thêm một biến cố nữa sau 37 năm xa cách, Bạn Nguyễn Ngoc Trường đã ra đi vĩnh viễn vào ngày 10-4-2012 với niềm thương tiếc của Người Thầy kính yêu, năm nay đã gần 90 tuổi và của các bạn đồng môn Đội I Khóa 3 QGTM Saigon.
Hôm nay ngồi đây, thắp nén hương thầm, xin được hoài niệm Bạn N.N. Trường qua một vài hình ảnh kỷ niệm từ những ngày xa xưa ....



(rà chuột vào góc dưới bên phải slideshow này để vào menu xem hình theo ý muốn)
--
Đỗ Văn Lý VN (K3)

19 tháng 4, 2012

both sides now

Lời tác giả: Để khuấy động phong trào văn thơ cho blog Góc Thương Mại, cũng như để giải khuây cho Quý Đồng môn, T. xin gửi đến blog một bài viết ngắn. Bài viết có thể là vụng về, nhưng chắc chắc một điều, khi viết T. đã viết với tất cả những cảm xúc thật nhất của con tim. Xin Quý Đồng môn vui lòng lượng thứ! 

BOTH SIDES NOW 

Một sinh viên cũ mà tôi từng hướng dẫn làm đồ án tốt nghiệp, quê ở một tỉnh miền Trung xa xôi, ra trường đã 2 năm kể với tôi: …cái đất Sài Gòn này em ngán quá rồi Cô ơi. Đi đâu cũng thấy những mưu mô toan tính. Mua có bịch dâu tây ngoài vĩa hè, mang về mở ra bên trong hư hết trơn. Buổi tối có hôm xe hư em phải đi xe ôm, trên đường đi nói chuyện với ông xe ôm rất vui, vậy mà đến trước cửa nhà, ông ta giựt mất cái ví của em chạy mất tiêu, còn xô em té đau điếng. Đến cô bạn gái dân Sài Gòn mới quen cũng chỉ chăm chăm hỏi: Anh có đi làm công ty nước ngoài không? Anh có nhà riêng chưa? Lương Anh bao nhiêu ?... Làm em điên tiết, delete cô ta ngay thôi. Xe cộ thì chen chúc đầy đường, khói xe thì mù mịt… muốn stress luôn. 

Môi trường Xây dựng ở đất Sài Gòn thật lắm phức tạp. Trực tiếp đụng đến đồng tiền trong cái nguồn vốn lớn lao đổ vào một công trình xây dựng, ai mà chả động lòng tham. Hồi mới ra nghề em bị lãnh bao nhiêu là cú lừa. Ông sếp kêu mình ký, ngây thơ ký vào mà không hiểu ất giáp gì…Đám thợ kêu ca vợ ốm, con đau sao mà khổ quá, em lại ký giấy cho họ tạm ứng lương, thế là biến ngay lập tức. Đến thủ kho là một người quen cùng quê, cũng thông đồng với các chủ vựa đổ vật tư qua mặt em vù vù. Hồi đó em cả tin, nghĩ con người ta đâu mà xấu xa thế. Hết dám nhìn đời màu hồng, mà nhìn đời bằng cặp mắt cú vọ, như thể luôn nhớ đến cái câu nói: “người ta lương thiện là vì chưa có dịp gian” hoặc :” lương thiện vì chưa được trả đúng giá”….

…Ủa, vậy Em vẫn còn ở đất Sài Gòn này làm chi dzậy?... 

Nhìn khuôn mặt em rắn rỏi, cặp mắt không còn trong vắt như ngày nào, các câu hát của bài Both sides now như xoay tròn trong đầu và muốn bật ra thành lời. Lần đầu tiên, tôi nghe bài này vào năm 1970 do nữ ca sĩ Joni Mitchell trình diễn với cây ghita thùng, giọng ca thật nhẹ nhàng. Sau đó, năm 1973 ban nhạc the Dreamers với các con của Phạm Duy trình bày. Thái Hiền với giọng ca hơi “chua” cùng giọng bè phụ họa của Duy Quang, Duy Cường cũng làm tôi rất thích thú, nhất là phần lời Việt do Phạm Duy viết. Hồi đó, đang trên ghế nhà trường, đời toàn màu hồng, tôi như muốn uống vào lòng các lời ca giản dị : Bows and flows of angel hair. And ice cream castles in the air. And feather canyons ev’ry where. I’ve looked at cloud that way… Được viết qua lời Việt là : Mây xây lầu đài trên cõi trùng. Nhẹ nhàng như bông chuyển thành tơ buông. Mây như tóc thần uốn trên màn không. Tôi cho mây đẹp vô cùng… 

Các giấc mộng đời tươi đẹp được trôi qua từng ngày, từng ngày trên ghế nhà trường. Không toan tính, hông dối gian, trải lòng cùng bạn bè mà không sợ thua thiệt. Trên con đường đến trường có lẽ chả có con sói nào rình rập cô bé Quàng khăn đỏ, mà toàn là… Bows and flows of angel hair…Hoặc là : Moons and Junes and ferries wheels. The dizzy dancing way you feel. As ev’ry fairy tale comes real. I’ve looked at love that way..Như bao nhiêu chuyện thần tiên đẹp. Này là yêu anh này là yêu em. Bao nhiêu khát vọng bấy nhiêu chờ mong. Tôi cho cõi đời dễ dàng… Anh chàng hàng xóm cứ hát như gào la cái bài hát thật ra rất nhẹ nhàng này. Hay là anh đã lãnh quá nhiều cú lừa và nhìn thấy ở bài hát cái side phía bên kia thôi chăng ? Còn tôi thì lẩm nhẩm bài hát một cách mơ mộng suốt ngày là vì tôi cũng chỉ nhìn vào cái side phía bên này chăng ? Có lẽ vậy, mỗi người đứng bên một side mà kênh kênh nhau khi lỡ nhìn chạm vào cặp mắt nhau mỗi lúc đi ngang nhà. Cho đến cuối năm 1974 anh lên đường nhập ngũ, cuộc chiến đang hồi khốc liệt vào giai đoạn chót. Gia đình anh sau đó dời đi. Mất liên lạc . Tiếng hát của Joni Mitchell, của Thái Hiền và của anh Hàng xóm thường vang trong đầu tôi mỗi khi tôi phải đứng về một side nào đó trong cái cuộc sống ngày càng đa đoan khi ta không còn ở ghế nhà trường nữa. 

Phía side màu đen thì như thế này: …But now they only block the sun They rain and snow on ev’ry one So many things I would have done know. But cloud got in my way …Nhưng nay mây thay mầu trên khắp trời Từng làn mây đen về làm mưa rơi Bao nhiêu những điều tôi vẫn hằng mơ. Theo mây tan về tít mù…Những dư vị đắng ngắt trong lòng khi mình lãnh những trái đắng do sự cả tin. 

Em đã quá “già” để cần một lời khuyên, em kể chỉ là để nhẹ lòng . Em còn nói: …Cô làm việc trong môi trường giáo dục, chắc Cô đâu có bị đụng chạm mặt trái của cuộc đời ?... Còn tôi thì không muốn kể cho em là đã bao lần tôi phải nhảy sang side màu đen để chiến đấu trong cuộc đời này. 

Rồi những khi loay hoay mãi bên side màu hồng để lãnh những vấp ngã đau, cú nhỏ lẫn cú lớn ngay trên mảnh đất Sài Gòn này. Nhưng có một điều, tôi chưa bao giờ nguyền rủa đất Sài Gòn này như em. Cái mảnh đất Sài Gòn đáng yêu và đáng ghét, nhưng nó đã lỡ chứa hết cả trái tim của tôi mất rồi !.. Những ngày tháng lang thang trên những mảnh đất xinh tươi khác, linh hồn tôi đã bao lần khóc nức nở đòi quay về mảnh đất đẹp lẫn không đẹp này đấy thôi. 

Thôi thì hãy: I’ve looked at clouds from both sides now from up and down. And still somehow. It’s cloud illusions I recall. I really don’t know clouds at all. Nay tôi xin nhìn mây đến hai lần Nhìn khắp xa gần Nhưng vẫn cho rằng Đám mây đám mây mông lung ảo huyền Ôi mây ôi mây là gì… Mây huyền. Side màu hồng, side màu đen. Hãy nhìn cho rõ cả hai phía. Nhưng hãy cho tôi được trở về đứng trên bục giảng hoặc trở về căn nhà trong hẻm nhỏ, trở về cái Góc Thương mại bé tí xíu để được đắm mình bên phía side màu hồng. Còn em, chắc em cũng phải có những nơi chốn nào để trở về phía bên này sau những lúc miệt mài “chiến đấu” bên phía side màu đen ? Chúc em mọi sự tốt lành trong những ngày Em còn sống trên cái mảnh đất Sài Gòn này. 


Sài Gòn, tháng Ba/ 2012 
Thôn Nữ.

--

18 tháng 4, 2012

theo dòng ký ức cùng hướng về Reunion 2012 santa ana

Xin kính gởi đến quý GS, các anh chị một đoạn video clip do anh Phạm Bá Luân K.3 thực hiện về Reunion 2010 để "ôn cố tri tân" cùng hướng về Reunion 2012 với nhiều nét đặc sắc hơn. 
Chân thành cám ơn anh Luân và tất cả quý vị !  

TM Broadcasting in SF


 


Để hâm nóng Đại Hội QGTM 2012 tại Santa Anna-California 23/6/2012; một lần nữa chúng tôi xin giới thiệu cùng các anh chị video hình ảnh từ Đại Hội 2010 tại Washington-DC do anh Phạm Bá Luân và anh Đỗ văn Lý K3 thực hiện.
Xin quí anh chị ghi danh Đại Hội QGTM 2012 tại Santa Anna cho sớm; đây là cơ hội quí hiếm để chúng ta gặp gỡ đoàn tụ. Đời xem vậy chứ ngắn lắm các anh chị ơi.

Dương Khuê


--

17 tháng 4, 2012

chuyến đi tình cảm về Vĩnh Long ngày 14/4/2012

"Vĩnh Long cảnh lịch, người xinh 
Ruộng vườn tươi tốt, dân tình hiền lương" 

Riêng với chúng tôi, "người xinh" nhất phải là bạn Lê Thị Hường K16 đã năm lần bảy lượt mời chúng tôi về Vĩnh Long viếng thăm bạn ấy và những "cảnh lịch người xinh" khác... 





Mời quý bạn vào link YouTube nghe "tâm tư của Hường và các đồng môn VL" qua bài hát vui "Mùa Xuân Mời Bạn Về Thăm Vĩnh Long Quê Tôi" (pps Hồ Tĩnh Tâm) với những cảnh hoa Xuân (năm Tân Mão 2011). http://www.youtube.com/watch?v=CTZG2KjPdk0 


Vĩnh Long cảnh đẹp người xinh 
Quyện lòng du khách gợi tình nước non. 
Tam Bình giáp với Trà Vinh 
Sống về ruộng rẫy, dân tình hiền lương 
Ngày xưa giặc Pháp nhiễu nhương 
Tình nhà đem đổi tình thương giống nòi. 
Dòng xanh lơ lửng con đò 
Bao giờ trỗi được câu hò nước non 
Trăng vàng khi khuyết khi tròn 
Bao giờ nô lệ hết còn trên vai 
Tuốt gươm thiêng, bỏ chiếc cày 
Chặt xiềng lệ thuộc, xây đài vinh quang. 
Vĩnh Long tiền ruộng bạc sông 
Mái chèo khoan nhặt bóng hồng thướt tha 
Nụ cười chào khách gần xa 
Hẹn ngày trỗi hát bài ca thanh bình. 


"Phái đoàn" chúng tôi gồm 12 ACE Saigon: 
Phan Xuân Thành K1 
Lê Quang Thọ K2 
Lê Trung Thu K3 
Lâm Thị Mỹ K4 
Nguyễn Hữu Trí K14 
Phan Thị Ngọc Ánh K17 
Nguyễn Chí Hùng K18 
Lê Hoàng Thục K19 & con gái 
Trần Thị Thôn K19 
Trần Xuân Mỹ K19 
Vũ Tuyết Mai K19 
(Giờ chót vắng mặt bạn Nguyễn Trung Ân K3 bệnh đột xuất và em Trần Hữu Bình K18 bận công tác). 

Khởi hành bằng xe thuê từ Saigon lúc 6g30 sáng, ghé Trung Lương dùng điểm tâm khoảng 8g tại quán Hai Hùm, chúng tôi đi theo hướng cầu Mỹ Thuận đến nơi lúc 10g. Trên đường không biết Chí Hùng "hoạt náo" kiểu gì mà các bạn nữ thường xuyên phá lên cười muốn tung cả mui xe! 

Ra đón chúng tôi có gia chủ Lê thị Hường (K16) và các đồng môn Vĩnh Long gồm: 
* các chị: Nguyễn thị Nết (K16) Lưu thị Thu Vân (K16) Nguyễn thị Ngọc Anh (K16) 
* các anh: Trương Như Nguyện (K16) Dương Bá Thọ (K4) và bạn Lâm thị Ngọc Dung (K19) từ Trà Vinh qua. 

Trong lúc ngồi hàn huyên chuyện cũ, bạn LT Thu có nhắc đến bạn Dương Bá Thọ K4 cũng ở VL , thế là kết hợp phone mời bạn ấy đến. Quả là một dịp may kết nối vòng tay lớn: tuy ở cùng tỉnh mà mấy mươi năm qua ACE chẳng hề biết có đồng môn bên cạnh! 

Hình chụp ở sân nhà chị Hường 
Hàng ngồi từ trái qua: 
Hường, Hoàng Thục, Xuân Mỹ, Tuyết Mai, Ngọc Dung 
Hàng đứng từ trái qua: 
Chí Hùng, Thôn, Ngọc Anh,anh Trí, anh Thọ,anh Nguyện,Nết, chị Mỹ,
anh Thành, Thu Vân,Ngọc Ánh, anh Thu, anh Vincent Thọ 

Trong bữa cơm trưa rất thịnh soạn tươm tất do gia đình bạn Hường khoản đãi giữa những tiếng reo hò "một hai ba DZÔ…" (chỉ chút bia và nước ngọt thôi nhé!), chúng tôi có dịp tâm sự chuyện đời từ ‘75 đến nay, mới biết có người tương đối sống ổn, có người từ bỏ “bút nghiên” theo nghề ruộng rẫy sau một thời gian bị kỳ thị đủ điều. Chính vì thế, có bạn dù được mời cũng không thể đến dự bởi không thể gác lại công việc hằng ngày… 

Bên bàn tiệc ở nhà chị Lê thị Hường 
Bên bàn tiệc ở nhà chị Lê thị Hường 
Dàn đầu bếp Vĩnh Long cùng các phụ bếp từ Sài Gòn xuống 
Các đồng môn Sài Gòn tặng quà lưu niệm cho các đồng môn Vĩnh Long 

Đến khoảng 12g30, từ giã bác gái (mẹ Hường) đang bó bột cánh tay gãy trong một tai nạn khoảng thời gian họp mặt QGTM Saigon ngày 11/2 vừa qua, chúng tôi lên thuyền do các bạn VL thuê sẵn qua cù lao Đồng Phú (xem chi tiết bên dưới) thăm bạn Nết và ông xã Long (trong khi tài xế phải lái xe theo đường bộ và qua phà). Một chuyến du ngoạn lý thú trên sông ngang qua các điểm du lịch sinh thái đang thu hút nhiều khách du lịch nước ngoài… 

Phái đoàn trên đò qua nhà chị Nết ở cù lao Đồng Phú 

Nằm giữa sông Tiền và sông Cổ Chiên thuộc nhánh sông Mêkông, diện tích rộng khoảng 60 km2, gồm bốn xã: An Bình, Bình Hòa Phước, Hòa Ninh và Đồng Phú thuộc huyện Long Hồ - tỉnh Vĩnh Long, về phương diện du lịch phía Bắc giáp chợ nổi Cái Bè - tỉnh Tiền Giang, phía Đông nam giáp làng trái cây huyện Chợ Lách - tỉnh Bến Tre, phía Tây hướng về cầu Mỹ Thuận, phía Nam đối diện với thành phố Vĩnh Long. 
Nhà của đôi uyên ương Long-Nết nằm cạnh bờ sông rất thơ mộng. Nơi đây chúng tôi lại được gia chủ ân cần tiếp đón với những món "ăn chơi", đặc biệt 4, 5 thứ rượu thuốc đặc sản mà may thay bạn Trí nhà ta có đủ "bản lãnh" ngồi "chén thù chén tạc" với anh Long trong khi chúng tôi dùng món chè đậu đỏ, rau câu, trái cây,... 

Nhà em nền đất, cột cau. 
Tuy nghèo tiền bạc nhưng giàu tình thương. 

Bưởi Bình Minh

Chị Nết đãi các đồng môn bằng “cây nhà lá vườn” 

Hình chụp trước hiên nhà chị Nết & anh Long 

Khoảng 15g30, chúng tôi xin phép từ giã 2 bạn Long-Nết và các bạn VL khác (cùng đi theo) lên xe về Saigon trong nỗi niềm luyến tiếc và... "chưa đã" vì vẫn còn nhiều nơi chưa thăm viếng hết: 

"Vĩnh Long giàu bưởi Bình Minh 
Cam quít Tam Bình, đồng lúa Vũng Liêm 
Bà Phong, Bà Phận, Ông Cớ, Ông Nam 
Dưới sông cá bạc, tôm vàng 
Ruộng đồng lúa trúng, nhiều bạn hàng tới lui". 

"Rạch Cái Cam, vườn cam sai quả 
Rạch Cái Cá, cá lội thành đàn 
Lòng tôi tha thiết yêu nàng 
Như vườn cam ngọt, như đàn cá bơi". 

"Sông Mang Thít có dòng nước xoáy 
Rạch Bà Soi nước chảy vòng cung 
Người đi mang nỗi nhớ nhung 
Sông này vẫn giữ thủy chung với người". 

Sau đó lại nhờ thổ công Chí Hùng hướng dẫn, chúng tôi mò mẫm theo hướng Bến Tre ghé thăm chị Thu Hương (K2) lần nữa (lần trước ngày 25/2/12), qua cầu Rạch Miễu và về đến Saigon lúc 19g. 

Hình chụp trước thềm nhà chị Thu Hương 
Đôi bạn Lâm Thị Mỹ và Dương Bá Thọ (K4)

Có một chi tiết thú vị trong chuyến đi : đôi bạn Lâm thị Mỹ & Dương Bá Thọ (K4) gặp lại nhau thật bất ngờ tại nhà chị Hường. 

Có thể nói chuyến đi rất thành công đặc biệt nhờ lòng hiếu khách "truyền thống" của các bạn Vĩnh Long, một dịp để duy trì và củng cố tình hữu nghị QGTM trong những ngày còn lại, bởi các bạn trẻ nhất cũng đã U60 rồi! Ước mong sẽ tổ chức được nhiều chuyến đi vui vẻ khác như vậy trong tương lai, Trà Vinh chẳng hạn! Rất tiếc lần này không thể mở rộng hơn nữa số người tham dự do có những ràng buộc và giới hạn ngoài ý muốn, xin thông cảm! 

Để kết thúc, xin mời các bạn vào link dưới đây nghe Bích Phượng hát bài "Vĩnh Long Một Khúc Tình Ca" với giọng ca rặt Nam Bộ. 


Vĩnh Long, ngày 14/4/2012 
Bài viết: Lê Quang Thọ (K2) 
Hình ảnh: Trần thị Thôn (K19) 

--
Lịch sử Vĩnh Long 
(tư liệu)

Long Hồ Dinh - một thời hoàng kim 
Cây da cửa Hữu - di tích lưu dấu về một thời hoàng kim của Long Hồ Dinh xưa... 

Trong lịch sử phát triển đầy biến động của vùng đất phương Nam, Vĩnh Long đã có một thời vang bóng. Gần 300 năm trước, Vĩnh Long đã đảm nhận vai trò lịch sử khi làm trung tâm cai quản và khai phá một vùng châu thổ Mê-kông rộng lớn. Đây là vùng đất được triều Nguyễn lập ra tiếp sau vùng đất phía Nam của phủ Gia Định vào năm Nhâm Tý 1732, với tên gọi Long Hồ Dinh, thuộc châu Định Viễn. 

Buổi đầu, sở lỵ dinh Long Hồ đặt tại thôn An Bình Đông (Cái Bè). Sau mấy lần dời đổi, dinh Long Hồ an vị tại xứ Tầm Bào (Thị xã Vĩnh Long ngày nay). Đây được xem là vị trí có “hình thắng yếu địa”, vừa nằm giữa đồng bằng, vừa án ngữ các đường giao thông thủy - bộ quan trọng. 

Thời ấy, Long Hồ Dinh cai quản cả một vùng đất đai rộng lớn. Những bước chân đi mở đất đã in dấu từ những cánh đồng nơi cò bay thẳng cánh đến những vạt rừng thâm u chạy dài từ Đông sang Tây, đến dải Thất Sơn kỳ bí trấn giữ miền biên viễn Tây Nam. Nếu tính theo các đơn vị hành chính hiệu hữu, thì đất Long Hồ Dinh xưa kia bao trùm cả ĐBSCL : từ Bến Tre, qua Trà Vinh, sang Sa Đéc, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau đến tận Hà Tiên (Kiên Giang). 

Sự khai mở và phát triển của nền văn minh lúa nước thời ấy đã hội tụ nơi dinh Long Hồ đủ 3 yếu tố cho sự hưng thịnh, đó là thiên thời - địa lợi - nhân hòa. Đất Long Hồ được xem là nơi ẩn vị của rồng. Trịnh Hoài Đức đã mô tả đất địa linh này trong “Gia Định thành thông chí” rằng : “Thế nước ôm quanh cồn nọ, dựa theo bến kia, chảy vào ngòi này, chia ra nhánh khác… Nhiều sông hội tụ cùng nhau… nước ngọt dầm thấm ruộng vườn, khi làm lúa thì bừa ruộng vãi giống, mà khi thâu hoạch thì bội đến phần trăm. Trong vườn thì có nhiều cau, trầu, dưa quả, mương ngòi thì đầy cả cá, lươn… Dân gian trước vườn sau ruộng, đều có sản nghiệp, làm ăn quanh năm quả là một nơi phú túc.” 

Thời ấy, Long Hồ Dinh là trung tâm phát triển nên anh hùng hào kiệt bốn phương đã hội tụ về giữa đất chín rồng để hiệp sức gầy dựng nghiệp lớn. Nhiều vị có công lớn ở vùng đất này được nhân dân ca tụng là : Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh - người có công đầu mở mang bờ cõi Phương Nam, Hiệp biện Đại học sĩ Nguyễn Cư Trinh... Vị có công lớn khai phá và phát triển vùng đất phương Nam nữa là Thống chế Thoại Ngọc Hầu với công trình lưu danh hậu thế “Kênh Vĩnh Tế”. Ông đã đốc thúc dân binh đào kinh dẫn nước ngọt ở cương thổ Tây Nam. Kênh Vĩnh Tế không chỉ là kế sách lâu bền cho an cư lạc nghiệp, mà còn là rào dậu hiểm địa trong việc phòng bị, trị an. 

Miếu Tống Quốc Công xưa 

Vị quan cai quản đầu tiên dinh Long Hồ là Quốc công Tống Phước Hiệp. Ông vừa là vị tướng cầm quân xông pha trận mạc, vừa hoạch định kế sách an dân và khuyến khích giao thương buôn bán. Xưa kia, trên phần đất cạnh dòng sông Long Hồ (đoạn từ Ủy ban Nhân dân Thị xã Vĩnh Long đến dốc cầu Thiềng Đức ngày nay) có thời là chợ Trường Xuân, dân họp chợ đông đúc, mua bán khá nhộn nhịp. Trải qua chặng đường một trăm năm, từ Long Hồ dinh (1732) đến Hoằng Trấn dinh, Vĩnh Trấn rồi đến trấn Vĩnh Thanh (1832), người dân vùng đất này đã cộng lực mưu sinh, chinh phục thiên nhiên, biến miền đất hoang vu, sình lầy, rừng rậm… thành nơi sản xuất lúa gạo và hoa trái dồi dào nhất nước. Sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức ghi đã ghi lại : 

“Ruộng cày trâu ở Phiên An, Biên Hòa, một hộc lúa giống, thâu hoạch được 100 hộc. Duy ở trấn Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long sau này) toàn là ruộng bùn sâu, không dùng trâu cày được, phải đợi lúc Hạ - Thu giao, có nước mưa đầy dẫy, cắt cỏ lùng lác, cào cỏ đắp làm bờ, rồi chỏi đất cấy mạ lúa xuống. Ruộng đất mầu mỡ, nên một hộc lúa giống thâu hoạch được 300 hộc. Ở trấn Định Tường có ruộng ngập nước, công lợi cũng không bằng ruộng Vĩnh Thanh… ” 

Năm Minh Mạng thứ mười ba (1832), triều đình nhà Nguyễn cho đổi các trấn thành tỉnh. Toàn bộ vùng đất phía Nam này được chia thành Nam Kỳ lục tỉnh. Vĩnh Thanh trấn được đổi tên thành tỉnh Vĩnh Long. Bước chân mở đất đi suốt 100 năm, kể từ khi dựng Dinh Long Hồ đến lập tỉnh Vĩnh Long, thì vùng đất này vẫn là trung tâm phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội hưng thịnh bậc nhất của đất phương Nam. Bấy giờ, Vĩnh Long là tỉnh có nhiều đồn điền và dân sinh sống lập nghiệp nhiều nhất, chiếm 64% Nam Kỳ lục tỉnh. Không chỉ có vị thế quan trọng ở đất liền, vào năm 1840, đảo Côn Lôn còn thuộc quyền cai quản của Vĩnh Long. Lúc bấy giờ, triều đình cho mộ dân đưa thuyền ra hải đảo, chinh phục thiên nhiên, khai thác những sản vật quý hiếm và giữ gìn lãnh thổ của đất nước ở biển Đông. 

Gần 300 năm trước, sau khi thành lập Dinh Long Hồ (năm 1732), có một khu chợ cũng đã hình thành ở vàm sông Long Hồ (thuộc khu vực Bến Đá, Phường 5, Thị xã Vĩnh Long ngày nay). Trên cơ sở sản xuất nông nghiệp phát triển, giao thương hàng hóa được mở mang, chợ Long Hồ đã có một thời thịnh vượng. Trịnh Hoài Đức đã mô tả trong sách “Gia Định thành thông chí” rằng : “Phố xá liền lạc, hàng hoá đủ cả trăm món, dài đến năm dặm, ghe thuyền đậu sát bến, các nơi đình quán, đàn ca náo nhiệt… ”. Theo "Đại Nam nhất thống chí" : “Vào giữa thế kỷ XIX, Vĩnh Long có 19 chợ, trong tổng số 93 chợ lớn nhỏ của Nam Kỳ lục tỉnh. Chợ lớn nhất của Vĩnh Long lúc bấy giờ là chợ Long Hồ”. 

Công thần miếu tại Vĩnh Long 

Từ đây, sản vật của đất phương Nam, nhất là lúa gạo và cây trái miệt vườn, vào thời cực thịnh đã được xuất ra ngoại quốc. Trong một biên bản hứa danh dự mà thương nhân người Hoa Sài Gòn - Chợ Lớn ký kết với thương nhân người Âu vào ngày 12.9.1874 có viết rằng : “Hai loại gạo ngon sẽ được bán cho thương nhân người Âu là gạo Gò Công hay gạo tròn và gạo Vĩnh Long hay gạo dài, đúng theo hạt gạo làm mẫu… ”. 

Có thời, người dân xứ này còn gọi chợ Long Hồ là chợ “Vãng” vì kỵ húy vua Vĩnh Thụy (Bảo Đại). Sau khi thực dân Pháp chiếm thành Vĩnh Long, chợ Long Hồ dời qua Phường 1, Thị xã Vĩnh Long như ngày nay. Chợ Long Hồ xưa không còn, phần lớn đất đai, phố xá đã trôi xuống dòng Cổ Chiên do nước xói lở… 

Đất Long Hồ Dinh xưa còn được mệnh danh là nơi đất học, đất có nhân tài. Tính từ khi có chế độ thi cử ở vùng đất phương Nam, duới triều Nguyễn, trong tổng số 260 người thi đỗ cử nhân, Vĩnh Long có đến 56 vị. Năm 1826, sau khi thi đỗ cử nhân, Phan Thanh Giản ra kinh đô Phú Xuân ứng thí và đỗ tiến sĩ. Ông là vị tiến sĩ đầu tiên của đất phương Nam. 

Trong những năm tháng đất nước bị chìm đắm giữa đêm trường loạn lạc vì mưu đồ đen tối của người Tây Dương, Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản, Đốc học Nguyễn Thông và các sĩ phu yêu nước đã thắp sáng lên vùng đất này một tinh thần hiếu học bất diệt. Năm 1866, Văn Thánh Miếu đã được dựng lên tại làng Long Hồ (nay thuộc Phường 4, Thị xã Vĩnh Long). Đây không chỉ là nơi thờ tự Đức Khổng Tử (ông tổ của đạo Nho), mà còn là điểm hội tụ của các bậc sĩ phu yêu nước, các vị nho sinh hiếu học. Trải qua bao biến đổi thăng trầm của thời cuộc, với nhiều lần trùng tu, tôn tạo… Văn Thánh Miếu vẫn giữ được nét tôn nghiêm, tao nhã thuở ban sơ. Giữa hai hàng sao đứng thẳng hàng trầm mặc, bia đá trăm năm vẫn khắc sâu nét bút người xưa : “Sự cai trị thì chỉ thấy ở lúc bấy giờ, mà sự dạy dỗ thì lưu truyền đến muôn đời. Phải có sự dạy dỗ thì sự cai trị mới có chỗ thi thố được… ”. Văn Xương Các là nơi cất sách thánh hiền và thờ Văn Xương Đế quân (Vị tinh quân cai quản việc thi cử, học hành). Tầng dưới Văn Xương Các khi xưa là nơi thi nhân đàm đạo, nay là nơi thờ tự cụ Phan Thanh Giản, các vị tiền hiền đã có công vun đắp và làm rạng danh vùng đất học Vĩnh Long. 

Cầu Lộ là một trong những cây cầu chính yếu dẫn vào trung tâm tỉnh lỵ Vĩnh Long. Xưa, cầu xây bằng gỗ, có tên gọi khá hay là cầu Lộc. Dốc cầu Lộc thuở Long Hồ Dinh không lượn cong như bây giờ. Nó là một đường thẳng, bắc ngang qua rạch Ngư Câu (Cái Cá), gần cây da cửa Hữu. Cây da cửa Hữu là di tích duy nhất còn lưu dấu trên đất thành Vĩnh Long xưa. Thời hoàng kim, Long Hồ Dinh không chỉ hưng thịnh về mặt kinh tế, vinh hiển về lĩnh vực văn hóa, mà còn vang danh với một hoàng thành rộng lớn, với một thành lũy hùng trấn đất phương Nam. 

Cách nay gần 200 năm, vào ngày 22 tháng 2 năm Quý Dậu (1813), niên hiệu Gia Long thứ 12, trấn thủ Lưu Phước Tường chỉ huy xây dựng thành lũy và công thự tại lỵ sở Trấn Vĩnh Thanh, trên phần đất ấp Bình An và ấp Trường Xuân, thôn Long Hồ (nay là Phường 1, Thị xã Vĩnh Long). Thành Vĩnh Long xưa (tương tự như thành Mỹ Tho, Biên Hòa) đều xây dựng theo kiểu Vauban - kiểu kiến trúc thành lũy Tây Âu, thế kỷ XVII, XVIII. Thành Vĩnh Long xưa, xây lưng hướng Kiền (hướng Tây - Bắc), mặt nhìn về hướng Tốn (hướng Đông - Nam). Bốn mặt thành, chỗ giữa thủng vào, ngoài có khúc thành bao vòng cửa thành, cong ra như đầu ngọc khuê, bốn góc thành có sừng nhọn như hình kim qui. Trong thành, có 2 con đường dọc, 3 con đường ngang… Thành Vĩnh Long xưa có 4 cửa : Tiền, Hậu, Tả, Hữu. Cửa Tả nhìn ra sông Long Hồ, cửa Hữu nhìn qua rạch Ngư Câu (nay là rạch Cái Cá), cửa Tiền mặt trước hào thành có đào đường cừ rộng và sâu (nay là rạch Cầu Lầu), cửa Hậu nhìn ra sông Cổ Chiên... 

Thời ấy, khi xây thành Vĩnh Long, các cửa ngõ có quan lộ dẫn vào thành đều được thiết lập các điểm canh gác nghiêm mật. Phía Đông thành có cầu Lầu bắc ngang qua quan lộ chạy dọc theo sông Long Hồ. Cầu có vọng gác dựng lên ở giữa, bốn phía có lỗ châu mai, hai bên gác có cầu thang cho lính trèo lên canh phòng. Xưa kia, bên kia cầu Lầu có xóm Lò Rèn chuyên làm đồ binh khí cho quân lính đóng trong trường thành. Thành Vĩnh Long xưa giờ đã biến mất trên nền đô thị mới. Giữa phố xá ồn ào, chỉ duy nhất sót lại bóng dáng cây da cửa Hữu. Nó độc chiếm một không gian trầm lắng, vươn cành lá che mặt trời và bám rễ sâu vào thành cổ. Cây da cửa Hữu là di tích còn lưu dấu một thời hoàng kim của đất Long Hồ Dinh… 

Những kỳ tích mà người Long Hồ Dinh đã thiết lập quả là vô giá. Nó đã hun đúc nên hào khí đất phương Nam, đã làm rạnh danh nòi giống rồng tiên. Nó sẽ âm vang suốt chiều dài lịch sử như bản trường ca mở đất. Nó là hành trang quý báu để các thế hệ người Vĩnh Long tự hào và vững tin bước tiếp những chặng đường mới. 

Lê Thạch

--

13 tháng 4, 2012

từ giã anh nguyễn ngọc trường (K3)


anh Nguyễn Ngọc Trường - K3
(hình do anh Dương Thành Phòng cung cấp)

Các bạn thân, 
Tôi mới được em gái của bạn Nguyễn Ngọc Trường báo tin anh Trường đã ra đi trong thanh thản vào lúc 3:30 giờ sáng ngày 11 tháng 4 năm 2012 (Giờ Úc Châu) ! 
Không ngờ buổi hội ngộ nhân dịp Đại Hội QGTM tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào tháng 7 năm 2010 vừa qua là lần cuối cùng chúng mình được gặp lại anh Trường sau hơn 30 năm xa cách ! Vậy là anh em Đội 1 chúng ta không còn gì để luyến tiếc nữa nhé ! 
Nhờ bạn Luân thông báo dùm cho anh Dương Khuê để nhờ Hội Ái Hữu Trường QGTM loan báo tới các đồng môn QGTM khắp Thế Giới ! 
Xin các bạn cầu nguyện hàng đêm cho anh Nguyễn Ngọc Trường ! 

Hoàng-Gia-Bẩy 
Silver Spring, Maryland

Hạnh Ngộ khóa 3
từ trái sang :
các anh Trần Ngọc Trụ - Đỗ Văn Hợp - Nguyễn Ngọc Trường -
Thành - Hoàng Gia Bẩy - Đỗ Văn Lý - Phạm Bá Luân
(hình do anh Dương Thành Phòng cung cấp và anh Đỗ Văn Lý ghi chú)

-- 

Thân gởi Anh Dương Khuê - 
Chủ Tịch Hội Ái Hữu QGTM Saigon tại Hoa Kỳ, 

Chúng tôi vừa nhận được tin buồn: 
Anh Nguyễn Ngọc Trường (K3) định cư tại Úc Châu, 
vừa đột ngột giã từ Gia Đình & "Bạn Bè QGTM" ngày 11-4.2012. 
Nay vội tin đến Hội để nhờ Anh Chủ Tịch thông báo đến qúi đồng môn QGTM Toàn Cầu tin không vui này. Nhân đây, chúng tôi cũng xin được chia sẻ niềm đau mất mát vĩnh viễn này với Chị Trường cùng thân quyến & bằng hữu của Anh. 
Xin chúc Anh Trường miên viễn an vui miền Tịnh Độ. 

TM .Đồng môn QGTM Saigon Khóa 3 -1958-1961 
Phạm Bá Luân
North Potomac, MD


anh Nguyễn Ngọc Trường và phu nhân
(hình do anh Đỗ Văn Lý cung cấp)

-- 

Xin kính chuyển đến quý GS cùng các anh chị về sự ra đi vĩnh viễn của đông môn K.3. Kính nguyện cầu linh hồn anh Nguyễn Ngọc Trường sớm yên nghỉ, và xin chân thành chia buồn cùng chị Trường và gia đình. 

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU! 
TM Broadcasting in SF


anh Nguyễn Ngọc Trường và các đồng môn khóa 3
cùng dự Gala 2010 ở Washington DC
(hình do anh Đỗ Văn Lý cung cấp)


--

Thưa các bạn,
Ở Úc tôi có đặt 01 tràng hoa ghi : Hội Ái Hữu Cựu Sinh viên Quốc Gia Thương Mại-Nguyện cầu siêu thăng. Tôi xin phép đại diện tất cả các bạn đến phúng viếng và tiễn đưa anh Nguyễn Ngọc Trường. Ở Úc chỉ có mấy người QGTM, anh Khai (khóa 1), Nhành, Nhã (khóa 3, 4) đã đi trước rồi, còn lại Nhân (khóa 3) hôm nay đi mỗ mắt, Doanh (khóa 9) chưa liên lạc được, Xuân Diệu (khóa 11) đang nằm bệnh viện trị bịnh ung thư. Rốt cuộc chỉ có một mình tôi đi đưa đám anh Trường, không sao tôi có thể tự lo.
Có lẽ không nên đăng báo.
Các bạn cầu nguyện cho Trường đủ rồi.
Kính thăm các bạn và gia đình.

Dương Văn Chung (Úc)
--

Xin thành kính phân ưu với tang gia và nguyện xin hương linh bạn Nguyễn Ngọc Trường được sớm về cõi phúc!
Nhờ anh Chung chuyển lời giùm. Rất cám ơn anh, đặc biệt về mọi sự liên quan đến QGTM tại Úc. Cho tôi gởi lời hỏi thăm chị và toàn thể gia đình!

Thọ K2 - Tân Định (Việt Nam)
--

Kính gửi các anh chị và các bạn,
Nhận được tin buồn về sự ra đi của anh Nguyễn Ngọc Trường khóa III, mong anh Bảy Hoàng vui lòng chuyển lời chia buồn của Ban Liên Lạc VN thay mặt các đồng môn nơi đây vì chúng em không có địa chỉ mail của gia đình anh Trường.
Chân thành Cảm ơn,

TM Ban Liên Lạc VN, 
Nguyễn Thị Hiền 
--

Hi Binh
Vui lòng chuyển lời chia buồn đến gia đình anh Nguyễn Ngọc Trường K3.

Loi Duong (K18)
--

Kính chào ACE,

Đây là hình ảnh Lễ Nhập liệm và phát tang bạn Nguyễn Ngọc Trường (K3) rất trọng thể theo nghi lễ Phật Giáo. Cô Cẩm Hóa (K15) và vợ chồng tôi, Dương Văn Chung (K2) đại diện các bạn đến viếng tang, chia buồn.
Tôi sẽ đưa đám.
Thân mến,

Dương Văn Chung (K3)

(rà chuột vào góc dưới bên phải của album này để vào nút điều khiển xem hình theo ý muốn)

--

8 tháng 4, 2012

hội các bà tám đi ăn cưới

    - A lô! Thành – Huệ đây. Xin long trọng mời bạn đến dự tiệc cưới của con gái của Thành – Huệ nhe. Thiệp cưới thì sẽ gửi đến bạn sau, nhưng Thành cũng xin thông báo trước là tiệc cưới sẽ tổ chức vào lúc 5 giờ chiều ngày 7/4/2012, nhà hàng Saphire ở chân cầu Văn Thánh đó. 
    - Khóa Thương mại K19 của Ngọc Huệ, hai bạn mời những ai? 
    - Thì…: Minh Hạnh, Ngọc Châu, Xuân Mỹ, Hoàng Thục, Đặng Hiền, Nguyễn Hiền, Hoàng Oanh, Việt Hoa , Thôn. Chính là các khuôn mặt nữ ở lớp Công Chánh B75, chỉ có Hiền Nguyễn là ở lớp Cơ khí thôi. 
    - Thế nào T. cũng đi dự. Cám ơn Thành nhiều ! 

từ trái sang :
Thôn - Xuân Mỹ - Hoàng Thục - Hoàng Oanh - Việt Hoa -
Ngọc Huệ - Minh Hạnh - Hiền Nguyễn - Hiền Đặng - Ngọc Châu

Đến hẹn lại lên ! Hội các bà Tám K19 đi dự lần này là lần thứ ba đám cưới con của Ngọc Huệ - Thành, vì cặp này có đến 4 con lận. Hai lần trước là đám cưới hai con trai, còn lần này là đám cưới con gái. Còn một con gái út nữa mới xong. Hội không hổ danh “bà Tám” : tán chuyện tưng bừng như pháo rang…. 
    - Hê lô, Hoàng Oanh hôm nay đổi mới quá ta, nhận hổng ra nữa đó ! 
    - Thì mấy lần trước bị nhỏ T. chê quá xá, kỳ này tức khí phải tút lại… 
    - A, nghe nói anh Lang không thích Oanh mô đen phải không ? 
   - Không những anh Lang mà cả thằng con cứ “dìm tài “ mẹ nó không hà. Hai cha con cứ la làng lên : trông Mẹ “kỳ” quá à… 
Hoàng Thục mỉm cười rất “triết lý”: 
   - Nghe đây các bạn : tất cả các ông đều thích vợ mình trùm kín mít, như đám Hồi giáo í. Nhưng lại thích ra đường ngắm các cô ‘tươi mát”. 
    - Vậy tại sao cậu đang mặc bộ đầm có kín mít tí nào đâu ? 
    - À à, nghệ thuật là phải từ từ. Lúc đầu tớ cũng trùm kín như các bà Muslim, rồi mỗi ngày tớ “cưa” ngắn đi một tí, cho đến khi bác Giang nhà ta quen mắt lần thì bác í thấy cũng OK, bà xã mình mặc trông cũng được đó chứ ! 
……….. 

Ngọc Huệ từ Khoa Thương mại K19, năm 1975 chuyển qua Khoa Công chánh, ngành Thủy lợi. Ông xã Huệ là Thành thì thi tuyển vào cùng Khoa nhưng vào lớp Cầu đường B75. 
   - Trong Khóa K19, Ngọc Huệ lập gia đình thuộc loại sớm nhất. Nhớ lúc Huệ có bầu con đầu lòng là lúc Huệ lên bảo vệ trước Hội đồng chấm tốt nghiệp lớp Thủy lợi B75. 
   - Can đảm thiệt ta ơi ! Rồi thì Huệ - Thành sống rất hạnh phúc cho đến tận bây giờ. 
   - Huệ thì hiền, dịu dàng, Thành thì thẳng tính, bộc trực. Bù đắp cho nhau. 
   - Cái ông thần quạu Thành thật ra rất hay : làm việc vô cùng kỹ lưỡng, trách nhiệm đầy mình. Lúc T. gởi hồ sơ design qua nộp cho bên Sacomreal thì mới hay ổng mới vô làm Quản lý kỹ thuật, tức là chỉnh sửa bản vẽ trước khi cho in. 
   - Có bùng nổ gì không ? 
   - Ồ không. Mình cũng hồi hộp chờ xem sao, nhưng nhất định không phone hỏi thăm gì cả, sợ mang tiếng chi phối bạn bè. Ổng cũng không phone cho mình. Đến hẹn, mình qua gặp ổng thì ổng mỉm cười phán rằng : Thật tình mà nói, đây là một trong những bộ hồ sơ design mà tôi tìm thấy ít lỗi nhất. Cám ơn T. ………… 
   - Hồi này T. chịu khó viết cho blog GTM ghê ta ? 
   - Ừ. Nhưng mà đả đảo độc diễn ! Các bạn chịu khó viết cho blog xôm tụ lên đi chứ. 
   - Thôi hổng dám. Bọn em chỉ rành “văn” nói thôi, hổng có rành “văn “ viết. À, còn mấy cái vụ thăm viếng, họp mặt, làm từ thiện là sao ? 
   - Thì toàn là tự phát không à: 
          . Thăm viếng thì cứ hô lên cùng đi, một tí trái cây thì dễ mà, share ra thôi. 
          . Họp mặt hàng tháng thì cũng từng nhóm, cũng share . 
          . Từ thiện thì cùng đi theo nhóm, rồi chung vô chứ không nhận tiền của ai hết. 
   - Có trường hợp nào đồng môn TM cần giúp đỡ không ? 
   - Cho đến nay thì T. chưa thấy có, vì T. cũng mới sinh hoạt lại với TM à. Nhưng cái vụ “giúp đỡ” là phức tạp lắm đó, cần nghiên cứu cho kỹ. 
   - Tớ bận không theo nhóm đi từ thiện được, cho gửi ké ít tiền được không ? 
   - Không ! Địa chỉ cơ sở từ thiện được giới thiệu rồi đó, cứ tự liên lạc mà gửi đến. 
………. 
   
   - Ủa, tới món đét xe rồi sao ? Sao hết giờ mau quá dậy ? 
   - Ờ, lo “tám” quá mà. 
   - Món chè hạt sen nhãn nhục này tớ thích số một. 
   - Hầm hạt sen nhớ chờ nước sôi kỹ rồi mới thả hạt sen vào đó nhe…… 

Thôi hết giờ rồi. Hội các bà Tám tan hàng tại đây. Hẹn kỳ sau, có đám cưới con đồng môn nào thì Hội lại tiếp tục tán. 

Cô dâu Trần Vũ Phương Thảo và chú rể Nguyễn Hồng Chương cùng Ba Mẹ: Ngọc Huệ và Thành.
Cháu Phương Thảo xinh xắn giống Mẹ và cao ráo giống Ba. 

Trên sân khấu : cô dâu & chú rể và Ba Mẹ hai bên 

Bánh cưới


08/4/2012 . 
Bài viết và hình ảnh : Thôn Nữ (K19)

4 tháng 4, 2012

vĩnh biệt nhạc sĩ "nổi buồn hoa phượng"

TTO - 14g30 ngày 4-4, nhạc sĩ Thanh Sơn, người nổi tiếng với những tình khúc buồn đi sâu vào lòng người như Nỗi buồn hoa phượng, Lưu bút ngày xanh, Hạ buồn... đã từ giã cõi đời, sau hơn một năm chống chọi với bệnh tật. 


nhạc sĩ Thanh Sơn

Gia đình nhạc sĩ Thanh Sơn cho biết nhạc sĩ Thanh Sơn mắc chứng tai biến mạch máu não từ năm ngoái. Hơn một năm qua, ông bị liệt nửa người và sức khoẻ giảm sút nhanh chóng. Thời gian điều trị kéo dài khiến bệnh tình thêm nặng với các biến chứng về tiểu đường... 

Cách nay nửa tháng, ông cũng từng phải cấp cứu tưởng chừng không qua khỏi. Do vậy người nhà của nhạc sĩ dường như đã chuẩn bị trước tâm lý cho ngày ra đi của ông. 

Lễ nhập quan nhạc sĩ Thanh Sơn sẽ được tổ chức vào 6g30 ngày (5-4) tại nhà riêng (số 100/40/14 Đinh Tiên Hoàng, Q. Bình Thạnh). Vào 6g30 sáng thứ Hai, gia đình sẽ đưa linh cữu của nhạc sĩ về nghĩa trang công viên Chánh Phú Hoà, Bến Cát, Bình Dương. 

Nhạc sĩ Thanh Sơn tên thật là Lê Văn Thiện, sinh ngày 1-5-1938 (trong giấy khai sinh là năm 1940) tại Sóc Trăng, là con thứ mười trong một gia đình có 12 anh chị em. 

Được học nhạc từ nhỏ với nhạc sĩ Võ Đức Phấn (em ruột nhạc sĩ Võ Đức Thu) nên máu văn nghệ đã ngấm sâu vào tâm hồn ông. 

Ca khúc đầu tiên của ông là "Tình học sinh", ra đời năm 1962, tuy nhiên không tạo được tiếng vang lớn. Ca khúc đầu tiên đã làm cho tên tuổi ông sống mãi trong lòng khán giả chính là Nỗi buồn hoa phượng. 
Ngay khi ra đời, ca khúc đã trở thành một trong những ca khúc nổi tiếng nhất viết về mùa hè, mùa chia tay. Sau đó, ông tiếp tục phát huy thế mạnh này của mình qua hàng loạt ca khúc viết về đề tài học sinh như: Ba tháng tạ từ, Màu áo hoa phượng, Lưu bút ngày xanh, Hạ buồn, Ve sầu mùa phượng.., ngoài ra còn có nhạc trữ tình: Nhật ký đời tôi, Trả lại thời gian, Mùa hoa anh đào..., này được nhiều tầng lớp khán giả đón nhận. 

MINH TRANG

2 tháng 4, 2012

nghe anh tôn thất quyền ngâm thơ : chi lạ rứa !

anh Tôn Thất Quyền (K11)
       Hôm Họp mặt Đồng môn QGTM 2012, sau khi hát một loạt liên khúc 5, 6 bài, anh Tôn Thất Quyền (K11) ngâm bài thơ : Chi lạ rứa ! Mới nghe mấy câu đầu, bao nhiêu cảm xúc của thời học lớp 11 lại tràn dâng trong lòng T., khi lần đầu (năm 1973) được nghe cô giáo dạy văn ngâm bài này với giọng Huế “chay”. Bài thơ của tác giả Nguyễn thị Hoàng viết năm 1970 (cùng năm với tác phẩm Vòng tay học trò). 
      Anh Quyền với giọng Huế đầy tình cảm, ngâm từ đầu đến cuối bài liền một mạch. Chắc ít có ai biết, T. đã ngẩn ngơ nghe anh ngâm từng chữ một vì bài thơ T. có thuộc lõm bõm một chút. 
       Một hôm, T. lại đánh liều gọi phone xin anh Quyền viết lại cho bài thơ Chi lạ rứa ! May mắn thay, anh viết và gửi cho T. ngay sau đó. Thật hết sức cám ơn anh Quyền vì tấm lòng đối với “đàn em”, mà lại là “đàn em” hay quấy nhiễu các ông Anh, bà Chị như T. Nay T. xin gửi bài thơ để mọi người cùng thưởng thức. 

CHI LẠ RỨA ! 

Chi lạ rứa! Chiều ni tui muốn khóc 
Ngó chi tui: đồ cỏ mọn hoa hèn 
Nhìn chi tui: hình đom đóm ban đêm 
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch. 

Tui ước ao có bao giờ tuyệt đích 
Tui van xin, răng mà cứ làm ngơ 
Rồi ngó tui chi lạ rứa hững hờ 
Ghét, yêu mến, vô duyên và trơ trẽn. 

Tui đã tắt nỗi ngại ngùng và bẻn lẻn 
Nhưng làm răng ai biết được người hè 
Răng mà chiều đã rủ bóng lê thê 
Ni với Nớ khi mô mà gần gủi. 

Chi lạ rứa! Răng cứ làm tui tủi ? 
Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau 
Cảm tình câm nên không sắc không màu 
Và vạn thuở chẳng nên lòng luyến ái. 

Chi lạ rứa! Người làm tui ái ngại, 
Biêt sông sâu hay cạn giữa tình đời 
Bên ni bờ lòng trắng vẫn chơi vơi 
Mà bên nớ trầm ngâm mô đáng kể. 

Tui không muốn khóc chi nhưng giọt lệ 
Đọng làn mi ấp ủ mối tâm tình 
Bên ni bờ lòng trắng hết tươi xinh 
Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy. 

Muốn xuống thuyền mặc sóng cuồng đưa đẩy 
Nhưng thân đau nên chẳng dám đánh liều 
Đau chi mô, có lẽ hận cô liêu 
Mà chi lạ rứa hè, ai hiểu nỗi! 

Tui không van xin cũng không hề bối rối 
Ngó làm chi cho tủi nhục đau thương 
Tôi biết tôi là hoa dại bên đường 
Không màu sắc chi lạ rứa hè, người hỉ ? 

Tôi cũng muốn có một người tri kỷ, 
Nhưng đường đời chi đó, biết mần răng. 
Tôi muốn kêu, muốn gọi, muốn thưa rằng 
Chờ tôi với, a, cười chi lạ rứa ! 

Tôi không buồn sao mắt mờ, lệ ứa 
Bởi lòng ai tui có hiểu chi mô 
Mà lòng tui là mắt nước sông hồ 
Chi lạ rứa! Bên ni bờ tui khóc. 

NGUYỄN THỊ HOÀNG (1970 )
----

Vài dòng về tác giả Nguyễn Thị Hoàng
   
     Tác giả Nguyễn thị Hoàng sinh năm 1938, từng được mệnh danh là Francoise Sagan của Việt Nam kể từ khi Chị cho ra đời tác phẩm Vòng tay học trò (1970). Bỏ qua khía cạnh đạo đức của câu chuyện thì, theo T., tác phẩm được viết với một văn phong rất hay, với một bố cục sắp xếp rất đặc biệt, những gì dung tục đi chăng nữa thì đều được tác giả đan xen vào các bối cảnh vô vùng mơ mộng và biến nó thành những mộng – thực mãnh liệt lẫn nhẹ nhàng. Tác giả viết không nhiều, như các tác phẩm : Trên thiên đường ký ức (1967), Về trong sương mù (1970), Bây giờ và mãi mãi (1974)…., một số truyện ngắn và thơ đăng trên tạp chí Văn, Bách khoa…Theo T.,chị Hoàng viết rất chắc tay, tác phẩm nào cũng là một sự “hoàn chỉnh” khó mà “chê” được (dù người đọc có thích hay không thích). T. đã chọn một truyện của Chị để thuyết trình vào năm lớp 12, như một sự cảm phục về một nhà văn nữ đương thời. Một nhà văn nữ mà ngoài các tác phẩm của Chị, do một số duyên may vô tình, T. được quen biết nhiều “người thực , “việc thực “ trong cuộc đời tình cảm đầy sóng gió của Chị. 
     Bài thơ Chi lạ rứa! được viết từ những cảm xúc tràn ngập đến độ thăng hoa thành một tác phẩm làm người đọc phải ngẩn ngơ. Sau này, hầu như T. không còn gặp được các tác phẩm văn thơ dạng “thăng hoa” như thế ở đất Sài Gòn này . Giờ thì các bài thơ , khi đọc, chỉ đem lại cho mình cảm giác rằng đó là các bài thơ quá ít cảm xúc, các bài thơ “được nhấn nút” sản xuất ra hàng loạt ! …Thời đại quá là materials để làm thơ hay sao ? 
     May là Trung niên Thi sĩ Bùi Giáng đến năm 1998, khi qua đời, còn để lại một số di cảo thơ cho kẻ hậu sinh đọc lai rai. Các Anh Chị, các bạn có thể vào Google tìm nghe ca sĩ Hồng Vân ngâm bài thơ Chi lạ rứa! Một vài thiển ý, mong các Anh Chị, các bạn đừng cười chê. 

----
Sài Gòn, đầu tháng 4/2012
Trần thị Thôn (K19)